Tôm sú (Penaeus monodon) là đối tượng nuôi quan trọng và phổ biến ở vùng nước lợ Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Nuôi tôm sú thành công và mang lại thu nhập đáng kể cho nhiều gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều hình thức nuôi tôm khác nhau phù hợp với quy mô gia đình, bao gồm thâm canh, bán thâm canh và quảng canh cải tiến.
Tuy nhiên, hiện nay tình hình bệnh xảy ra thường xuyên làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế của người nuôi. Bên cạnh những bệnh nguy hiểm thường gặp trên tôm sú nuôi thâm canh. Do tác nhân vi rút hay bệnh liên quan đến gan tụy thì bệnh do các sinh vật bám (bệnh “đóng rong”) cũng gây thiệt hại đáng kể cho nghề nuôi. Các sinh vật bám gây bệnh “đóng rong” bao gồm động vật nguyên sinh, vi khuẩn dạng sợi, tảo bám, vi nấm…
Mục lục
Sơ lược về tôm sú
Tôm sú (tên khoa học: Penaeus monodon) là một loài động vật giáp xác đại dương được nuôi để dùng làm thực phẩm.
Phân bổ tự nhiên của loài này là khu vực Ấn-Tây-Thái Bình Dương, trải từ bờ đông châu Phi, bán đảo Ả Rập, đến tận Đông Nam Á và biển Nhật Bản. Ở đông Úc cũng có loài này, và một lượng nhỏ tôm sú cũng đi vào Địa Trung Hải qua kênh đào Suez. Ngoài ra còn có ở Hawaii và bờ biển Đại Tây Dương của Mỹ (Florida, Georgia và Nam Carolina).
Cả con đực lẫn con cái đều đạt tới kích thước khoảng 36 cm chiều dài. Con cái có thể nặng tới 650 g, khiến nó trở thành loài tôm pan đan lớn nhất thế giới.
P. monodon là loài tôm pan đan được nuôi rộng rãi nhất trên thế giới. Mặc dù loài tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei ngày càng chiếm ưu thế. Hàng năm hơn 900.000 tấn tôm sú được tiêu thụ, hai phần ba số đó đến từ các trại tôm ở Đông Nam Á.
Dấu hiệu của bệnh đóng rong
Tôm sú khi bị bệnh đóng rong có biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào những loại sinh vật bám. Và cả những chất bẩn bám trên bề mặt cơ thể (Hình 1A, E và F). Hiện tượng đóng rong ở mang tôm thường làm cho mang đổi màu thậm chí bị đen (Hình 1B, C và D). Hiện tượng đóng rong ở vỏ tôm thường làm vỏ tôm trơn giống như phủ lớp nhớt. Vỏ tôm trông có tảo bám trên bề mặt, vỏ tôm không sạch.
Bệnh đóng rong rất dễ nhận biết, toàn thân bị dơ. Tập trung ở phần đầu ngực hay toàn thân, mang và các phụ bộ. Tôm bị bệnh đóng rong, trên vỏ thường có màu xanh của tảo. Màu đen khói đèn hay màu xám đục giống như bùn. Tôm bị bệnh này rất yếu, bỏ ăn, ít di chuyển và cặp mé bờ. Đồng thời mang thường bị tổn thương hoặc biến đổi màu sắc.
Tôm bị bệnh đóng rong thì hoạt động khó khăn. Bệnh nặng phá hủy vỏ tôm và xâm nhập vào cơ thịt tôm. Ngoài ra bệnh còn tạo điều kiện cho các loại vi khuẩn và ký sinh trùng xâm nhập.
Nguyên nhân yếu tố gây bệnh
>> Xem thêm tại Phòng bệnh thủy sản
Bệnh đóng rong xảy ra do sự phát triển của các sinh vật bám và sự tích tụ các vật chất vô cơ trên bề mặt cơ thể tôm. Hiện tượng này thường xuất hiện ở những tôm có sức khỏe kém. Tôm yếu không thể tự làm sạch cơ thể hay cũng không lột xác bình thường như những tôm khác. Vì thế trên vỏ tôm thường bị các chất dơ bẩn bám vào. Bên cạnh đó điều kiện ao nuôi xấu thường làm tôm bị suy yếu, các chất dinh dưỡng ngày càng tăng trong quá trình nuôi thúc đẩy sự phát triển của các sinh vật gây bẩn bề mặt.
Các loài sinh vật có thể gây bệnh đóng rong ở tôm bao gồm động vật nguyên sinh Zoothamnium spp., Vorticella spp., Suctoria spp.. Các động vật chân tơ (barnacles); tảo Spirulina subsalsa, Schizthrix calcicola, Enteromorpha sp., Amphora sp., Nitszchia sp.; nấm Fusarium sp.. Vi khuẩn dạng sợi Leucothrix spp. Và các loại khác (Hình 2). Bệnh dễ xảy ra ở những ao nuôi có mức nước thấp, rong và tảo phát triển nhiều. Những ao có đáy dơ hoặc nguồn nước xấu, nhiều chất hữu cơ.
Những phương pháp phòng bệnh
Bệnh đóng rong gây ra bởi các sinh vật bám khác nhau nên phải chú ý dấu hiệu ban đầu để xử lý hiệu quả nhất. Nên cải tạo chất lượng nước, cho ăn thức ăn có đầy đủ chất dinh dưỡng. Để kích thích tôm hoạt động và lột xác thường xuyên. Chỉ xử lý tôm bằng hóa chất khi nào bệnh kéo dài dù đã cải thiện chất lượng nước.
Cung cấp đầy đủ oxy giúp tôm dễ dàng lột xác hơn. Sử dụng men vi sinh định kỳ. Quản lý chất lượng nước ao tốt, ổn định tảo trong ao và luôn đảm bảo nhu cầu oxy cho tôm.
Các cách trị bệnh
Có thể dùng formalin (37-40% formaldehyde) với liều lượng thường dùng là 25-30 mL/m3 nước ao nuôi. Nên dùng ban ngày và sục khí liên tục trong quá trình xử lý. Formalin có tác dụng trực tiếp diệt sinh vật bám và kích thích sự lột xác của tôm.
Hóa chất formalin là loại chất lỏng không màu, trong suốt, có nồng độ cồn mạnh, có mùi hăng, làm cay mũi. Formalin thường được sử dụng phổ biến trong công nghiệp, có thể hòa tan vào nước, rượu,… Formalin có thể được tạo ra từ sự cháy và được bán ra với dạng dung dịch 37% trong nước.
Formalin là loại hóa chất công nghiệp được sử dụng phổ biến hiện nay. Đặc biệt, formalin được sử dụng nhiều nhất trong nuôi trồng thủy sản. Chúng thường được sử dụng như một chất khử trùng, sử dụng trong trại giống, ngoài ao nuôi.
Có thể dùng BKC 80 với liều 0,8 mL/m3, đối với các loại BKC có hàm lượng hoạt chất thấp hơn thì sử dụng theo chỉ dẫn nhà sản xuất.
Sử dụng chế phẩm vi sinh để phân hủy các chất hữu cơ để làm sạch đáy ao thường xuyên.
Sử dụng một số hóa chất diệt tảo, diệt nguyên sinh động vật khi chúng phát triển mạnh trong ao nuôi.
Hy vọng JIA đã cung cấp cho bạn nhiều thông tin hữu ích.
Nguồn: tomvang.com