
Sán lá đơn chủ 16 móc Dactylogyrus và Gyrodactylus 18 móc là những loài ký sinh phổ biến ở cá nuôi và cá sống trong môi trường tự nhiên. Khi mức độ nhiễm ký sinh trùng sán cao có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, bệnh tật, chậm lớn hoặc tử vong. Vì vậy, để xác định vi khuẩn gây bệnh cho cá, người nuôi cần nắm rõ hình dạng, dấu hiệu bệnh, vòng đời, mối nguy, mùa xuất hiện bệnh, có biện pháp phòng trừ phù hợp để hạn chế dịch bệnh. Chúng tôi sẽ giúp bạn nắm rõ hơn các thông tin trong bài viết sau.
Ký sinh trùng là một trong những tác nhân gây bệnh truyền nhiễm ở động vật thủy sản, đặc biệt là gây bệnh trên cá. Trong số đó, giống sán lá đơn chủ 16 móc Dactylogyrus và sán lá 18 móc Gyrodactylus thường ký sinh phổ biến trên cá ương nuôi và cá sống trong môi trường tự nhiên ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Khi sán ký sinh với mức độ nhiễm cao sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cá, thậm chí có thể gây chết cá. Vì vậy, muốn xác định tác nhân sán lá gây bệnh cá thì người nuôi cá cần phải biết hình thái, dấu hiệu bệnh lý, vòng đời, tác hại, mùa vụ xuất hiện bệnh cũng như biện pháp phòng bệnh thích hợp để hạn chế dịch bệnh xảy ra.
Mục lục
Hình thái của sán lá đơn
Sán có dạng dẹp, màu trắng nhạt, chiều dài cơ thể dao động từ 0.4 -1mm tùy theo giống loài. Cơ thể gồm có phần đầu chia làm 4 thùy và có 4 tuyến đầu, riêng sán lá 16 móc Dactylogyrus có 4 điểm đen ở phần đầu gọi là 4 điểm mắt. Cơ thể sán lá Gyrodactylus nhỏ và linh hoạt hơn sán Dactylogyrus. Phần sau cơ thể là đĩa bám gồm 2 móc lớn ở giữa, 14 hoặc 16 móc nhỏ xung quanh. Dựa vào số lượng móc mà sán có tên gọi là sán 16 móc hoặc sán 18 móc.
Dấu hiệu của bệnh sán lá đơn
Sán ký sinh chủ yếu trên da, vây và mang của cá. Chúng dùng các móc ở đĩa bám để bám vào ký chủ và tổ chức tuyến đầu của sán tiết ra men phá hoại tế bào da, mang cá làm tiết nhiều dịch nhờn màu trắng đục cản trở hoạt động hô hấp của cá.
Vùng da, mang bị sán ký sinh có hiện tượng viêm loét dễ dàng cho vi khuẩn, nấm. Và một số ký sinh khác xâm nhập và gây bệnh. Trường hợp nhiễm nặng các tổ chức tế bào sưng to. Xương nấp mang cũng phồng lên, cơ thể thiếu máu dẫn đến gầy yếu, bơi lội chậm chạp. Cá ít hoạt động, nằm ở đáy ao hoặc nổi lên mặt nước đớp không khí, thậm trí mất dần khả năng vận động và bơi ngửa bụng.
Chu kì hoạt động
Sán lá đơn chủ có chu kỳ phát triển trực tiếp trên cơ thể cá. Sán Dactylogyrus đẻ trứng, trứng có thể chìm xuống đáy ao hay bám vào cây cỏ thủy sinh trong nước. Đến ngày thứ 4 trứng nở cho ấu trùng sống tự do và nhanh chóng tìm kiếm ký chủ tiếp tục đời sống ký sinh. Đến ngày thứ 10 phát triển thành sán trưởng thành và tham gia sinh sản. Thời tiết ấm tốc độ đẻ trứng càng nhanh. Sán Gyrodactylus đẻ con. Trong cơ thể sán có thể chứa 2-3 bào thai. Mỗi bào thai chứa 1 sán có hình dạng giống sán trưởng thành. Khi sán con chui ra khỏi cơ thể sán mẹ thì sán tiếp tục ký sinh trên cá và gây hại tương tự sáng trưởng thành.
Thời gian xuất hiện
>> TRUY CẬP THÊM TẠI PHÒNG BỆNH THỦY SẢN
Bệnh thường xuất hiện vào mùa mưa và lây nhiễm nhanh trong các ao nuôi mật độ dày. Điều kiện môi trường dơ bẩn. Nhiệt độ nước thích hợp cho sán phát triển và gây bệnh từ 22- 28oC.
Tác hại
Sán Dactylogyrusvà Gyrodactyluscó tính đặc hữu rất cao. Thường mỗi loài sán chỉ ký sinh trên một loài cá (mỗi giống sán có nhiều loài. Và mỗi loài chỉ ký sinh trên một loài cá nào đó). Một số nghiên cứu gần đây cho thấy cả hai giống sán lá này (có rất nhiều loài). Ký sinh trên nhiều loài cá nuôi và cá ngoài tự nhiên trong môi trường nước ngọt như cá tra, ba sa, chép, he, mè vinh, rô phi… Ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Đặc biệt trong ương nuôi cá tra. Sán gây bệnh nghiêm trọng cho cá hương và cá giống 3-5cm. Với tỉ lệ nhiễm 100% và cường độ nhiễm là >70 sán/cá (Bùi Quang Tề, 2001).
Theo Nguyễn Thị Thu Hằng và ctv (2007, 2009, 2010) thì kết quả phân tích cho biết cá giống ương nuôi ở ao/bè tỉ lệ nhiễm sánDactylogyrus, Gyrodactyluscũng rất cao từ 50-80%. Không có sự khác biệt lớn về cường độ nhiễm trung bình của nhóm cá ≥200g (36,8 sán/cung mang). Và nhóm cá <200g (22,24 sán/cung mang), điều này cho thấy sán lá ngoại ký sinh không chỉ phụ thuộc vào kích cỡ cá. Mà còn phụ thuộc và mật độ ương nuôi và điều kiện môi trường nước. Kết quả điều tra (2009) cho biết vào những tháng mưa nhiều tỉ lệ nhiễm sán lá 93,8%. Sán sinh sản và lây nhiễm rất nhanh làm cá thịt gầy yếu. Giảm trọng lượng. Và gây cá chết hàng loạt cá giống. Nhìn chung sán 16 móc và sán 18 móc gây tác hại lớn trên cá nuôi. Đặc biệt là trong sản xuất và ương nuôi cá giống.
Cách phòng sán
Cải tạo ao kỹ trước khi thả giống
Không nên thả cá mật độ quá dày.
Thường xuyên bổ sung dinh dưỡng bằng các sản phẩm như HEPAVIROL Plus, VITLEC 405 FS+ và BIOTICBEST For Export.
Định kì 7-10 ngày dùng OSCILL ALGA hay BIOXIDE 150 FISH hay GUARSA FISH để ngăn ngừa ký sinh trùng, vi khuẩn và nấm gây bệnh.
Biện pháp chống sán
– Cá giống 20 ngày tuổi và cá thịt: Dùng GUARSA FISH 1kg/4000 m3 nước. Xử lí lúc 8-10 h sáng, có nắng, sau 24h thay nước rồi xử lý lại lần 2.
-Trường hợp cá nhiểm mật độ ký sinh cao và chứa nhiều loại ký sinh trùng. Thì nên kết hợp dùng OSCILL ALGA Strong 1 lít/2000 – 3000 m3 nước (tạt cách nhau 1 giờ)
– Chú ý quan trọng trước khi xử lý để cá khỏe:
+ Nếu ao dơ bẩn, vật chất hữu cơ và khí độc cao. Thì nên dùng chế phẩm sinh học SANMELI hay VS STAR để xử lý trước 2 ngày rồi mới dùng GUARSA FISH.
+ Hoặc tạt YUCADO 100% hay Deodorants + SAN ANTI SHOCK trước 1 giờ đồng hồ rồi mới dùng GUARSA FISH.
+ Kết hợp kiểm tra thêm hàm lượng Oxy trong ao, nếu thấp thì tăng cường chạy quạt hay rải OXYBETTER trước khi dùng GUARSA FISH.
+ Kiểm tra sức khỏe xem cá có kém ăn, bị bệnh không ? Nếu bị bệnh thì do bội nhiểm giữa ký sinh trùng và khuẩn. Nên khi xử lý ngoại ký sinh xong thì phải dùng kháng sinh điều trị ( tùy theo bệnh mà chọn loại kháng sinh).
Cảm ơn bạn đã quan tâm và đọc bài viết của JIA.
Nguồn: sando.com.vn