Tổng quan về sản xuất và thị trường thức ăn của ngành chăn nuôi

Tổng quan về sản xuất và thị trường thức ăn của ngành chăn nuôi
13 phút, 14 giây để đọc.

Tổng quan về sản xuất và thị trường thức ăn của ngành chăn nuôi Việt Nam. Hãy cùng theo dõi bài viết nhé!

Ngành chăn nuôi ở Việt Nam

Là một bộ phận quan trọng cấu thành của nông nghiệp Việt Nam cũng như là một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, tình hình chăn nuôi ở Việt Nam phản ánh thực trạng chăn nuôi, sử dụng, khai thác; chế biến và tiêu thụ các sản phẩm động vật (súc vật nuôi); và tình hình thị trường liên quan tại Việt Nam. Chăn nuôi Việt Nam có lịch sử từ lâu đời; và đóng góp lớn vào cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo cũng như đời sống từ bao năm qua. Hiện nay; theo xu thế của một nền kinh tế đang chuyển đổi; chăn nuôi Việt Nam cũng có những bước đi mới và đạt được một số kết quả nhất định.

Ngành chăn nuôi ở Việt Nam

Trong ngành chăn nuôi thì con giống; dinh dưỡng và quản lý vấn đề vệ sinh chuồng trại là những yếu tố quan trọng nhất đối với người nuôi, những yếu tố này là cả một quá trình đầu tư, học tập, tích lũy kinh nghiệm; và đào tạo huấn luyện một cách thường xuyên nhưng ở chăn nuôi Việt Nam thì lại còn bất cập và nhiều khó khăn, nhất là công tác quản lý; và công tác thị trường. Hạn chế của chăn nuôi Việt Nam vẫn là quy mô nhỏ; năng suất thấp, lệ thuộc vào nguyên liệu, con giống; kỹ thuật và thị trường của nước ngoài; sức cạnh tranh kém cũng như việc sử dụng chất kháng sinh; chất cấm, chất độc trong chăn nuôi và tiêu dùng còn rất cao.

Tình hình sản xuất chăn nuôi

Xu hướng phát triển

Trong những năm gân đây, ngành chăn nuôi Việt Nam đã phát triển đáng kể. Kể từ năm 1990 đến nay ngành chăn nuôi có hướng phát triển tương đối ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt đến 5,27% năm. Chăn nuôi gia cầm có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất 15 năm qua. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm tăng rõ rệt; tư 3,5% năm trong các giai đoạn 1990-1995 lên đến 6,7% năm trong giai đoạn 1996-2000; và trong các năm còn lại đă tăng lên tới 9,1% năm.

Chăn nuôi lấy thịt là hình thức phổ biến nhất ở nước ta. Tổng sản lượng thịt hiện nay đạt 2 triệu tấn các loại; trong đó thịt lợn chiếm tới 76%. Hơn 90% thịt lợn; và trên 60% thịt gia cầm sản xuất ở các nông hộ được tiêu thụ trên thị trường nội địa.

Tuy có tốc độ tăng trưởng cao, song cơ cấu tỷ trọng thịt không thay đổi nhiều trong những năm gần đây; dù tỷ trọng thịt lợn có tăng từ 73,5% năm 1990 lên 77% năm 2004, trọng lượng thịt gia cầm tăng lên gần 16% trong tổng sản lương thịt so với 15% vào năm 1995.

Bên cạnh tình hình chăn nuôi lấy thịt; chăn nuôi bồ sữa cũng phát triển mạnh trong những năm gần đây; và không chỉ cung cấp sưa tươi cho tiêu thụ mà còn cung cấp cho các nhà máy chế biến sữa. Số lượng bồ sữa tăng từ 11.000 con năm 1990 lên gần 80.000 con năm 2004, trong đó; bò cái sinh sản có khoảng 50.000 con, bò sữa xấp xỉ 40.000.

Tuy nhiên, ngành chăn nuôi Việt Nam vẫn tồn tại một số vấn đề.

Một số vấn đề tồn tại trong ngành chăn nuôi

Thứ nhất, quy mô trang trại quá nhỏ. Xu hướng phát triển các trang trại lợn công nghiệp quy mô lớn là lực lượng xuất khẩu chính. Số lượng các trang trại này tăng mạnh từ năm 1996 đến năy. Năm 2003 cả nước có khoảng 2.000 trang trại chăn nuôi.

Mặc dù vậy, tỉ lệ trang trại chăn nuôi còn nhỏ; chỉ chiếm 2,9% trong tổng số trang trại các loại của cả nước và phần lớn trang trại tập trung ở vùng Đông Nam Bộ. Tỉ lệ nông dân nuôi trên 11 con lợn chiếm chưa đến 2%. Phần lớn nông dân chỉ nuôi dưới 3 con lợn.

Thứ hai, năng suất nuôi lấy thịt của Việt Nam còn tương đối thấp và tăng chậm trong vòng 10 trở lại đây. Tốc độ tăng trưởng bình quân của sản lượng thịt tính trên đầu con chỉ đạt 7,7%/năm. Đây là tỷ lệ áp dụng giống cải tiến thấp; và chăn nuôi tận dụng (sử dụng thức ăn thừa, thức ăn xanh, nguyên liệu thô).

Bên cạnh đó, chất lượng thịt cua Việt Nam còn thấp; biểu hiện ở tỉ lệ mỡ cao, bệnh dịch thường xuyên xảy ra nhất là đại dịch cúm gia cầm gần đây.

>>> Xem thêm các bài viết liên quan Kinh tế – thị trường Việt Nam

Hiệu quả

Nhìn chung, người chăn nuôi lợn Việt Nam có lợi nhuận thấp. Với hình thức chăn nuôi quy mô nhỏ; tận dụng, chi phí sản xuất cao, nông dân không thể có thu phập cao. Trong hai năm 2003-2004, chi phí sản xuất 1kg thịt lợn hơi vào khoảng 9.000-10.000 đồng. với giá trung bình trên 11.000dồng/kg, người chăn nuôi lợn chỉ lãi từ 700-1.000 đồng/kg.

Trong chi phí chăn nuôi lợn, chi phí dành cho thức ăn chiếm từ 65%-70%. Tuy nhiên giá thức ăn của Việt Nam quá cao với giá thế giới. Chưa nói đến chất lượng, chi phí chăn nuôi cao đã làm giảm khả năng cạnh tranh của thịt lợn Việt Nam.

Giống như chăn nuôi lợn, người chăn nuôi gà cũng gặp nhiều trở ngại, đặc biệt trong hai năm trở lại đây khi dịch cúm gia cầm bùng phát. Cúm gà đã gây thiệt hại lớn cho nuôi gia cầm. Ngay cả khi không có dịch và giá cả hợp lý; người chăn nuôi gà cũng chỉ có lãi rất ít. Chi phí sản xuất cho một kg gà hơi khoảng 11.000-12.000 đồng. Với mức giá bán 15.000 đồng/kg thịt hơi, người dân sản xuất có lãi trung bình trên 3.000 đồng/kg;, tương đương với 6.000-7.000 đồng/kg.

Tuy nhiên, nếu dịch bệnh xảy ra; người nuôi gà có thể bị lỗ nặng. Chính vì vậy, bên cạnh chi phí thức ăn; người chăn nuôi phải quan tâm nhiều hơn vấn đề vệ sinh thú y, chuồng trại.Chi phí thú y; và chi phí khác cũng là gánh nặng lớn đối với người dân.

Ngành sản xuất thức ăn

Ngành sản xuất thức ăn

Thị trường ngành công nghiệp chế biến thức ăn

Ngành chế biến thức ăn gia súc ở Việt Nam phát triển nhanh và mạnh từ đầu thập kỷ 90 đặc biệt từ năm 1994 đến nay. Do tác động tích cực của chính sách đổi mới, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước nên các nhà kinh doanh đã phát triển mạnh vào ngành công nghiệp này.

Về sản lượng

Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua. Nếu năm 1992, tổng sản lượng thức ăn chăn nuôi mới đạt 65.000 tấn đến năm 2000 đạt 2.7.00.000 tấn; và 2004 đạt 3.400.000 tấn đạt mức độ tăng trưởng bình quân 33,9% năm. Tỷ lệ thức ăn chăn nuôi công nghiệp với tổng nhu cầu về lượng thức ăn tinh cho vật nuôi cũng tăng đáng kể; nếu năm 1992 tỷ lệ này mới chỉ đạt 1.2% thì đến năm 1995 con số đã là 13%; và năm 2003 vươn lên trên 30%.

Về nhu cầu

Nhu cầu về thức ăn công nghiệp cho gia súc, gia cầm tăng bình quân 10-15% mỗi năm; và năm 2003 đang ở mức xấp xỉ trên 8 triệu tấn. Trong khi sản lương thức ăn hiện mới chỉ đạt trên 3 triệu tấn/năm do vậy mới đáp ứng được khoảng 32-35% nhu cầu. Như vậy; tiềm năng phát triển ngành thức ăn công nghiệp là rất lớn. Chính vì vậy, những năm qua ngành thức ăn công nghiệp chế biến thức ăn gia súc phát triển mạnh cả về số lượng; và máy cũng như chủng loại thức ăn gia súc, gia cầm.

Về cơ cấu nhà máy chế biến

Cơ cấu, nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi cũng rất đa dạng về công suất thiết kế; nhỏ nhất là 120 tấn/năm và lớn nhất 540.000 tấn/năm. Gần 2/3 máy có công suất dưới 10.000 tấn/năm nhưng chỉ sản xuấy được 8,1% tổng số lượng thức ăn. có 12 nhà máy (8,7%) có công suất trên 100.000 tăn/năm; nhưng sản xuất tới 58,6% tổng số công suất của toàn quốc.

Những nhà máy này tuy có số lượng không nhiều nhưng lại chiến ưu thế về vốn đầu tư mở rộng sản xuất; công nghệ tiên tiến và tính chuyên nghiệp trong kinh doanh cao nên đã làm tăng tỷ trọng sản lượng. Chỉ có số ít các nhà máy lớn chiếm tỷ trọng lớn lượng thức ăn gia súc nên không tránh khỏi hiện tượng độc quyền; và điều này đã ảnh hưởng tới giá của thức ăn chăn nuôi.

Các hình thức sỡ hữu nhà máy

Hình thức sở hữu phổ biến hiện nay là tư nhân/ công ty TNHH (53,6%); sau đó là sở hữu nhà nước (23,2%) và công ty nước ngoài/liên doanh (16,7%); thấp nhất là hình thức cổ phần (6,5%). Nếu so sánh với kết quả điều tra năm 1999 thì không biến động nhiều đối với hình thức sở hữu nước ngoài; mà có sự giảm tỷ lệ sở hữu tư nhân xuống còn 53,6%, gia tăng ở hình thức sở hữu liên doanh; và nước ngoài và nhà nước.

Các hình thức sỡ hữu nhà máy

Mặc dù số lượng nhà máy nước ngoài có tỷ trọng không lớn trong tổng số nhà máy nhưng lại chiếm tới 61,9% tổng sản lượng thức ăn công nghiệp (3.063 ngàn tăn/năm). Ngược lại; khối tư nhân có tỷ trọng nhà máy lớn nhất nhưng cũng chỉ chiếm 21,3% tổng sản lượng (1054,5ngàn tấn/năm); số còn lại là do khối nhà nước và cổ phần (16,8% sản lượng tương ứng với 830,5 ngàn tấn/năm). Điều này càng chứng tỏ năng lực; khả năng cạnh tranh yếu của các doanh nghiệp trong nước so với các doanh nghiệp nước ngoài với các sản phẩm thức ăn nổi tiếng như CP; Con Cò, AF, Cargill…

Năng lực cạnh tranh giữa các nhà máy

Ngành công nghiệp thức ăn chăn nuôi bị chi phối mạnh bởi một số công ty liên doanh; và nước ngoài. Các công ty trong nước có năng lực cạnh tranh yếu hơn nhiều so với các công ty liên doanh và nước ngoài khác. Hiện nay; Việt Nam cũng đã có một số nhà máy chế biến thức ăn có quy mô lớn,dây truyền hiện đại nhưng nhìn chung các công ty/nhà máy tư nhân; quốc doanh trong nước vẫn còn yếu.

Do đặc thù khách hàng của ngành thức ăn gia súc nói chung; và của công ty nói riêng, sản phẩm của ngành khác với những ngành khác; sản phẩm sản xuất phục vụ đại đa số đối tượng là những người chăn nuôi ở nông thôn với trình độ nhận thức của họ còn rất hạn chế; về kiến thức xã hội cũng như áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi cho mình.Tuy nhiên lại dễ mất lòng tin vì thế khi xây dựng; và đưa ra các chính sách về quản trị kênh cần phải nghiên cứu kỹ vấn đề này.

Đối thủ cạnh tranh

Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi giữa các doanh nghiệp cùng ngành; cạnh tranh ở đây được hiểu là cạnh tranh trên mọi lĩnh vực của doanh nghiệp, vì thế việc chiếm lĩnh; và cạnh tranh của các kênh phân phối là tất nhiên. Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau đã dẫn tới tình trạng tranh chấp kênh, nó ảnh hưởng trực tiếp tới việc thiết lập kênh; và các chính sách đối với đại lý của các doanh nghiệp.

Công ty TNHH sản xuất thức ăn gia súc Phương Đông là một công ty còn rất non trẻ; trên thị trường hiện nay có rất nhiều đối thủ cạnh tranh lớn như Con Cò; Heo Vàng; AF, CP, DABACO… đều là những doanh nghiệp có uy tín trên thị trường; và đều là những doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn. Hệ thống kênh phân phối của những doanh nghiệp này hết sức rộng rãi vì vậy đã gây khá nhiều khó khăn cho công ty trong việc xây dựng hệ thống kênh phân phối; các kênh mà công ty sử dụng hầu hết là kênh một cấp; và kênh trực tiếp, và các kênh một cấp cũng thường là những kênh không kinh doanh các mặt hàng của các hãng lớn.

Nguyên liệu chế biến thức ăn

Ngô và đậu tương là nguyên chế biến trong thức ăn gia súc. Nguồn nguồn cung cấp nội địa không đủ đáp ứng nhu cầu; về nguyên liệu nên hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu; đặc biệt là ngô. Năm 1990; cả nước mới chỉ khoảng 400 nghìn ha đến năm 2004 diện tích ngô toàn quốc; đã tăng lên 900 nghìn ha tốc độ tăng bình quân 6,2%/năm. Trong năm 2005 này diện tích ngô tăng đạt 1.000 ha.

Bên cạnh đó, nhờ ứng dụng các loại ngô lai mới; trong thời gian qua ngô Việt Nam tăng lên đáng kể. Đầu những năm 90, năng suất ngô chỉ đạt 1,5 tấn/ha. Đến nay năng suất ngô Việt Nam đã tăng lên 3,6 tấn/ha; tốc độ tăng bình quân 6.1 %/ năm. Mặc dù có sự tăng trưởng đáng kể nhưng so với các nước trên thế giới năng suất ngô; và đậu tương của Việt Nam còn thấp. Hiện nay năng suất ngô của Việt Nam mới chỉ bằng 56% năng suất ngô của Trung Quốc; và chỉ bằng xấp xỉ 1/3 so với năng suất ngô của Mỹ.

Tương tự, năng suất đậu tương của Việt Nam mới chỉ bằng 60% năng suất trung bình của thế giới; và chỉ bằng 2/3 năng suất đậu tương của Trung Quốc; và 40% năng suất của Mỹ. Đây cũng là lý do quan trọng làm cho chi phí; và giá bán ngô của Việt Nam cao hơn các nước khác.

Giá thức ăn

Giá nguyên liệu thức ăn gia súc ở Việt Nam cao hơn thế giới từ 20 đến 40%. Tính trung bình trong năm năm trở lại đây giá ngô trong nước của Việt Nam cao hơn giá ngô của thế giới 66 đôla/ tấn; tương tự giá đậu tương của Việt Nam cũng khá cao so với giá đậu tương trên thị trường thế giới. Năm 2004;, giá đậu tương trung bình của thế giới 218 đôla/tấn trong khi giá của thị trường Việt Nam lên đến 400 đôla.

JIA cám ơn bạn đã đọc hết bài viết này.

Nguồn: voer.edu.vn

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Phương Pháp Trồng Trọt

đậu tương

Học hỏi cách ủ phân đậu tương để bón cho cây trồng

Phân hóa học sử dụng trong một thời gian dài, sẽ làm cho đất trở nên thoái hóa, chai cứng …
Xem Chi Tiết
khoai lang

Hướng dẫn cách sử dụng chế phẩm sinh học A4 cho khoai lang

Khoai lang nếu trồng đúng kỹ thuật, cách bón phân và chăm sóc hợp lý sẽ đạt được năng suất …
Xem Chi Tiết
mít

Tìm hiểu cách sử dụng phân bón lá sinh học cho cây mít

Mít là loại cây dễ tính được trồng nhiều nơi. Nếu trồng đại trà thì phải tuân thủ theo quy …
Xem Chi Tiết
dưa hấu

Chia sẻ phương pháp phòng ngừa bọ trĩ gây hại dưa hấu

Bọ trĩ là một căn bệnh rất nguy hiểm và phổ biến với nhà nông. Chúng thường xâm hại lúa, …
Xem Chi Tiết
cà chua

Làm thế nào để trồng và chăm sóc cây cà chua tạo nên năng suất cao?

Cây cà chua có tên khoa học: Lycopersicum esculentum Miller, có nhiều giá trị dinh dưỡng, dễ chế biến, tùy …
Xem Chi Tiết
chanh

Khám phá phương pháp phòng trị nhện đỏ gây hại đến cây chanh

Cây chanh là một trong những loại cây ăn quả truyền thống của người dân Việt Nam. Nó là một …
Xem Chi Tiết

Nuôi Thủy Sản

Phương pháp phòng và trị bệnh đục cơ

Các nguyên nhân và cách phòng bệnh đục cơ ở tôm sú

Bệnh đục cơ là một bệnh phát triển dựa trên mật độ tôm cao trong ao và độ mặn ao …
Xem Chi Tiết
Những triệu chứng ăn mòn xuất hiện

Biện pháp trị và phòng bệnh vỏ tôm bị mòn kitin

Bệnh vỏ tôm bị mòn kitin là bệnh do vi khuẩn. Nó có thể làm hỏng vỏ tôm,Vỏ mềm và …
Xem Chi Tiết
Nguyên nhân dẫn đến bệnh cong thân

Phòng trị bệnh cong thân xuất hiện ở tôm

Bệnh cong thân tôm thường xuất hiện ở lứa tuổi 20 – 30 ngày ở những ao nghèo dinh dưỡng, …
Xem Chi Tiết
Những triệu chứng của bệnh

Phòng chống bệnh hoại tử cục bộ ở tôm bà con nên nắm rõ

Trong số các bệnh thường gặp ở tôm, bệnh hoại tử là bệnh thường gặp ở tôm và là bệnh …
Xem Chi Tiết

Bệnh mềm vỏ ở tôm và các biện pháp phòng tránh

Bệnh phù thũng hay còn gọi là mềm vỏ ở tôm thường biểu hiện bằng các triệu chứng sau: vỏ …
Xem Chi Tiết
Sức khỏe cá phải đảm bảo được theo dõi

Những quy trình phòng trị bệnh cá rô phi nuôi lồng, bè tại hồ Sơn La

Một số bệnh như chảy máu, bệnh viêm đường ruột, nấm da và bệnh trùng bánh xe thường được tìm …
Xem Chi Tiết

Kỹ Thuật Chăn Nuôi

Bật mí ứng dụng tinh dầu oregano trong chăn nuôi gia cầm, gia súc hiệu quả

Bật mí ứng dụng tinh dầu oregano trong chăn nuôi gia cầm, gia súc hiệu quả

Các sản phẩm tinh dầu có nguồn gốc từ thiên nhiên luôn được mọi người thích sử dụng cho chăn …
Xem Chi Tiết
Cách nhận biết gia cầm bị thiếu vitamin và biện pháp khắc phục

Cách nhận biết gia cầm bị thiếu vitamin, khoáng chất và biện pháp khắc phục

Khi gà thiếu vitamin và khoáng chất không dẫn đến hậu quả ngay lập tức hay gây chết đột ngột, …
Xem Chi Tiết
Làm thế nào để bổ sung vitamin cho gia cầm trong mùa nắng nóng?

Làm thế nào để bổ sung vitamin cho gia cầm trong mùa nắng nóng?

Bổ sung Vitamin A, E vào khẩu phần ăn cho gia cầm trong môi trường nắng nóng mùa hè có …
Xem Chi Tiết
Acid hữu cơ là gì? Những lưu ý khi bổ sung vào thức ăn của gia cầm

Acid hữu cơ là gì? Những lưu ý khi bổ sung vào thức ăn của gia cầm

Acid hữu cơ và muối của chúng được sử dụng như là chất phụ gia trong thức ăn dùng cho …
Xem Chi Tiết
Những vai trò của vitamin A đối với gia cầm và cách bổ sung hiệu quả

Vai trò của vitamin A đối với gia cầm và cách bổ sung hiệu quả

Vitamin là 1 hợp chất hữu cơ mà gia cầm chỉ cần 1 lượng rất ít để cơ thể hoạt …
Xem Chi Tiết
Phương pháp hạn chế kháng sinh trong chăn nuôi gia cầm, gia súc

Phương pháp hạn chế kháng sinh trong chăn nuôi gia cầm, gia súc

Trong ngành chăn nuôi hiện nay, kháng sinh được dùng để phòng và trị bệnh, đồng thời được dùng như …
Xem Chi Tiết