
Sò huyết (Anadara granosa) là loài nhuyễn thể 2 mảnh, có giá trị dinh dưỡng cao.Tại Việt Nam, mô hình nuôi sò huyết được nhiều người áp dụng do có nguồn thức ăn tự nhiên, vốn đầu tư ít và dễ quản lý, giúp mang lại lợi nhuận cao cho người nuôi.
Mục lục
Đặc điểm sinh học
Vỏ dày chắc, có dạng hình trứng; cá thể lớn có vỏ dài 60 mm, cao 50 mm, rộng 49 mm. Mặt ngoài của vỏ gờ phóng xạ rất phát triển; có khoảng 18-21 gờ. Trên mỗi gờ phóng xạ có nhiều hạt hình chữ nhật; đối với những cá thể già ở xung quanh mép vỏ những hạt này không rõ lắm. Bản lề hình thoi, rộng, màu nâu đen; có nhiều đường đồng tâm hình thoi. Mặt trong của vỏ có màu trắng sứ; mép vọ có nhiều mương sâu tương ứng với đường phóng xạ của mặt ngoài. Mặt khớp thẳng, có nhiều răng nhỏ; vết cơ khép vỏ sau lớn hình tứ giác; vết cơ khép vỏ trước nhỏ hơn hình tam giác.
Phân bố
Sò huyết (Anadara) phân bố ở các bãi bùn mềm, ít sóng gió và nước lưu thông. Các bãi sò thường gần các cửa sông có dòng nước ngọt đổ vào, nồng độ muối tương đối thấp. Sò nhỏ sống trên mặt bùn, sò lớn vùi sâu trong bùn khoảng 1 – 3cm. Chúng dùng mép vỏ và màng áo ngoài thải nước làm thành lỡ ở mặt bùn để hô hấp và bắt mồi.
Sò không vùi sâu nên yêu cầu về chất đáy chỉ cần khoảng 15cm bùn mềm nhưng tốt nhất là nền đáy là bùn pha một ít cát mịn. Sò có thể sống ở vùng triều (littoral) và vùng dưới triều (sublittoral) đến độ sâu vài mét. Nơi thích hợp nhất cho sò là tuyến triều thấp.
Sò có khả năng thích nghi với phạm vị biến đổi nồng độ muối rộng từ 10 – 35‰ (tỉ trọng 1.007 – 1.017), khoảng thích hợp là từ 15 – 30‰. Khi nồng độ muối giảm thấp dưới 10‰, nhất là trong mùa mưa lũ, sò sẽ vùi sâu xuống bùn. Nếu trong một thời gian ngắn nồng độ muối trở lại thích hợp thì sò chui lên và tiếp tục sống bình thường, nếu tình trạng nồng độ muối thấp kéo dài có thể làm sò chết. Phạm vi thích ứng nhiệt độ của sò cũng rất rộng từ 20-30 độ C.
Thiết kế mô hình nuôi sò huyết
Khi nuôi sò trong các đầm phải xây dựng một số hạng mục công trình như sau: Bãi nuôi nên có thiết kế hình chữ nhật và xây dựng kèm theo các công trình. Bờ ao xung quanh bãi phải đắp chắc chắn, mặt bờ rộng khoảng 2 – 2,5 m, đáy bờ 3 – 3,5 m, chiều cao của bờ 1,2 – 1,5 m. Xây dựng thêm mương bao xung quanh phía trong bờ ao. Diện tích mương bằng 15 – 20% diện tích bãi nuôi. Thủy triều trước khi vào bãi qua mương được lọc lại bùn, cát và các tạp vật khác làm cho nước vào bãi trong sạch. Mương ngoài tác dụng là rào chắn không cho sinh vật có hại xâm nhập vào bãi còn có nhiệm vụ điều chỉnh nhiệt độ trên bãi nuôi.
Phía trước bãi nuôi và đối diện với cửa cống cấp nước xây một bờ ngăn cao khoảng 0,6 m, bề mặt 0,6 m, cách bãi nuôi chừng 1,5 m và cách cửa cống 1,5 m, mục đích làm phân tán dòng chảy, giảm lưu tốc chảy của nước từ cống cấp vào bãi để đảm bảo cho bãi nuôi không bị xói mòn.
Chuẩn bị ao nuôi
Sau khi cải tạo, sên vét ao nuôi, mương bao, tiến hành lấy nước vào ao nuôi thông qua túi lọc để hạn chế trứng các sinh vật gây hại sò huyết xâm nhập vào ao nuôi. Nên theo dõi chất lượng nước ngoài kênh rạch trước khi cấp để đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho sò huyết phát triển.
Tiến hành gây màu cho ao nuôi tạo nguồn thức ăn tự nhiên (tảo) giai đoạn đầu, sau 2 – 3 ngày tiến hành diệt tạp, diệt khuẩn cho sò khi mới thả giống. Một số hóa chất thông thường có thể sử dụng để diệt tạp như dây thuốc cá (10 – 15 kg/1.000 m3), Saponin (10 – 15 kg/1.000 m3); gây màu dùng phân vô cơ DAP, Ure (3 – 5 kg/1.000 m3) nhằm tạo môi trường tốt cho thủy sản nuôi phát triển. Kiểm tra môi trường ao nuôi (pH, độ mặn, độ, độ kiềm, độ trong…) trước khi thả nhằm đối chiếu các thông số môi trường trong ao nuôi với giới hạn cho phép xem có nằm trong ngưỡng thích hợp hay không để kịp thời điều chỉnh.
Chọn giống sò huyết
Sò huyết giống hiện nay chủ yếu là lấy từ giống tự nhiên, cho nên trước khi tiến hành lấy giống cần phải điều tra, dự báo diện tích bãi giống, trữ lượng giống để có thể chủ động trong sản xuất. Xác định diện tích qua điều tra vùng phân bố của sò giống và xác định trữ lượng giống bằng cách lấy mẫu sinh lượng, dựa trên diện tích bãi giống và sinh lượng để tính ra trữ lượng giống.Thời điểm lấy giống nên tiến hành khi phát hiện giống khoảng 10 – 15 ngày (giống cỡ 25.000 – 30.000 con/kg). Sò tốt thường có màu sắc trắng hồng không lẫn tạp vật và các sinh vật hại sò.
Quá trình vận chuyển giống
Sau khi lấy giống, có thể vận chuyển giống bằng phương pháp giữ ẩm. Trong quá trình vận chuyển, tránh để sò huyết tiếp xúc với nước ngọt đặc biệt là nước mưa. Thời gian vận chuyển con giống không quá 6 giờ. Sò huyết giống được dựng trong cập đệm hoặc bao bố, để nơi thoáng mát, vận chuyển bằng xe hoặc tàu thuyền, thường xuyên tưới nước biển lên các bao đựng để sò huyết giống dễ hô hấp. Ở nhiệt độ thấp thì thời gian cho phép để vận chuyển lâu hơn và tỷ lệ sống cao hơn. Thời điểm thả giống có thể vào buổi sáng hoặc buổi chiều, trời mát, không mưa bão.
Mật độ thả giống
Trung bình nên thả sò với số lượng như sau: Cỡ 400 con/kg thả mật độ 850 – 900 con/1.000 m2, cỡ dưới 400 – 350 con/kg thả mật độ 950 – 1.000 con/1.000 m2, cỡ dưới 350 – 300 con/kg thả 950 – 1.000 con/1.000 m2, cỡ dưới 300 – 250 con/kg thì thả 1.000 con/1.100 m2.
Ngoài những thông tin về phương pháp nuôi sò huyết hiệu quả , còn có rất nhiều các bài viết liên quan đến phương pháp chăm sóc thuỷ sản cho các bạn tham khảo.
Chăm sóc và quản lý mô hình
Sau khi đã thả nuôi phải thường xuyên có người quản lý, kịp thời tu sửa đê bao của đầm nuôi; tránh bị rò nước ra ngoài; chú ý điều tiết lượng nước trong đầm. Cứ 15 ngày tháo nước một lần; kiểm tra sự sinh trưởng và điều kiện sống của sò; làm sạch đầm, loại bỏ sinh vật gây hại. Tiêu diệt các loài Muschlus senhousei và rong bún Enteromorpha spp… Nếu phát hiện mật độ sò quá cao; sò sinh trưởng chậm; thì chuyển bớt một bộ phận tới nuôi ở đầm khác.
Khi nuôi sò huyết kết hợp; cần san thưa định kỳ 2 – 3 tháng/lần;để tạo môi trường cho sò huyết sinh trưởng và phát triển tốt. Trong quá trình nuôi, hạn chế việc sử dụng hóa chất. Tuy nhiên, vào những ngày mưa lớn kéo dài; nên bón vôi CaCO3 liều lượng 10 – 15 kg/1.000 m3. Kiểm tra các yếu tố môi trường ngoài kênh cấp trước khi cấp và thay nước để ổn định chất lượng nước ao nuôi. Định kỳ kiểm tra mức tăng trưởng của sò huyết; các đối tượng nuôi trong ao và các yếu tố môi trường pH, độ mặn, độ kiềm, độ trong… để có hướng xử lý kịp thời.
Thu hoạch
Cỡ sò huyết giống thả 500 – 800 con/kg; sau thời gian 7 – 8 tháng nuôi sẽ cho thu hoạch; sò đạt cỡ thương phẩm 60 – 70 con/kg; Cỡ sò huyết giống thả 1.000 – 1.200 con/kg thời gian nuôi 12 – 18 tháng thu hoạch, sò đạt 60 – 70 con/kg.
Thông thường người dân áp dụng hai hình thức thu hoạch là thu tỉa và thu dứt điểm, áp dụng phương pháp thủ công khi thu hoạch sò huyết nuôi, rút nước trong ao còn khoảng 1/3, sau đó mò bắt.Hi vọng rằng bài viết tại JIA đã giúp cho các bạn có thêm nhiều thông tin hay và bổ ích.
Nguồn: thuysanvietnam.com.vn